Đốt than trộn - Vấn đề cấp thiết của Việt Nam (31/07/2014)

Ngành công nghiệp năng lượng là xương sống của mọi nền kinh tế, là nhân tố chính quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong cơ cấu nguồn điện của nhiều nước cũng như của Việt Nam thì các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) dùng than hiện chiếm vai trò chủ đạo. Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn sử dụng than antraxit nội địa (chủ yếu ở vùng Quảng Ninh) để phát điện. Dự kiến, đến năm 2015 chúng ta chính thức phải nhập khẩu than vì nguồn cung than nội địa không đáp ứng đủ. Theo Quy hoạch phát triển ngành than và ngành điện (Quy hoạch điện VII) giai đoạn 2011 - 2020, có xét triển vọng đến 2030 thì nhu cầu than cho sản xuất điện như sau:

Sản lượng điện và sản lượng than cấp cho điện

TT

Nội dung

Đơn vị

Năm 2020

Năm 2030

1

Sản lượng than khai thác

Triệu tấn

65

75

2

Khả năng cấp than cho điện

Triệu tấn

30

35

3

Sản lượng điện (kịch bản cơ sở)

Tỷ kWh/năm

330

695

4

Cung cấp bởi NMNĐ than

Tỷ kWh/năm

156

392

5

Chiếm tỷ trọng

%

47,27

56,40

6

Lượng than yêu cầu

Triệu tấn/năm

78

170

7

Lượng than thiếu hụt

Triệu tấn/năm

48

135

Lượng than thiếu hụt sẽ được bù đắp bằng việc nhập khẩu. Nguồn than nhập khẩu có thể là từ Úc hoặc Indonesia, vì hai nước này có trữ lượng than lớn và khoảng cách địa lý khá gần Việt Nam. Việc sử dụng than nhập khẩu sẽ được thực hiện trong các nhà máy đang và sắp xây dựng, còn một số nhà máy đang hoạt động có thể ưu tiên sử dụng than nội địa hoặc sử dụng than trộn giữa nội địa và nhập khẩu. Bản thân than nhập khẩu (chủ yếu là bitum và á bitum) cũng có rất nhiều chủng loại với thành phần rất khác nhau. Do đó, khi phải nhập khẩu than thì việc đốt trộn giữa than nội địa với than nhập hoặc giữa than nhập với nhau là điều không thể tránh khỏi.

Việc đốt trộn có thể thực hiện theo một trong hai cách là trộn ở ngoài buồng lửa hoặc ngay trong buồng lửa:

        

Đốt than đã trộn ở ngoài                                      

 

Đốt trộn trong buồng lửa

Đốt trộn ngay trong buồng lửa gặp phải khó khăn rất lớn là việc vận hành khá phức tạp. Vì vậy trong thực tế, các nước (ví dụ Nhật Bản) đều thực hiện việc đốt than đã trộn ở ngoài buồng lửa.

Các loại than khác nhau thì có thành phần và các tính chất nhiệt vật lý cũng rất khác nhau, đặc biệt là than antraxit Việt Nam khác rất nhiều so với than bitum và á bitum của Úc và Indonesia. Vì thế, để có thể đốt than trộn trong tương lai gần thì việc nghiên cứu phối trộn giữa hai hoặc ba loại than với nhau để tạo ra than có các đặc tính gần với than thiết kế, cũng như việc nghiên cứu các phương pháp và thiết bị phối trộn sao cho kinh tế và hiệu quả, hay việc nghiên cứu điều chỉnh, cải tiến thiết bị đốt là những yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam trong thời gian sắp tới. Đây là một đề tài lớn mà Hội Khoa học Kỹ thuật nhiệt Việt Nam đã được nhà nước giao chủ trì. Đề tài “Nghiên cứu công nghệ đốt than trộn giữa than khó cháy với than nhập khẩu dễ cháy nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nhiên liệu tại các NMNĐ đốt than ở Việt Nam” do PGS. TS. Trương Duy Nghĩa làm chủ nhiệm nằm trong chương trình trọng điểm nhà nước về năng lượng KC-05 đã được Bộ Khoa học & Công nghệ phê duyệt, thực hiện trong 2 năm 2014-2015. Hy vọng rằng các kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ tạo nên cơ sở khoa học vững chắc cho việc đốt than trộn ở Việt Nam sau này.

Nguyễn Quốc Uy