Giới thiệu đôi nét về công nghệ đốt than của Nhật Bản (31/07/2014)
Ở Nhật Bản, các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) than đều sử dụng than nhập khẩu và hầu hết đều đốt ở dạng than trộn. Đối với các công ty và tập đoàn của Nhật hoạt động trong lĩnh vực năng lượng thì việc trộn than đem lại nhiều lợi ích như sau:
1. Dễ dàng có được loại than theo yêu cầu của nhà máy;
2. Có thể giảm được chi phí mua than;
3. Có thể dễ dàng chọn một số loại than trong một dải rộng từ nhiều mỏ;
4. Có thể tiến hành mua một loại than cố định và ổn định quá trình cháy bằng việc thay đổi một số loại than;
5. Dễ dàng đảm bảo an ninh cung cấp than cho các nhà máy khi nguồn cung ở nước ngoài bị gián đoạn;
6. Linh họat trong việc đầu tư vào các mỏ than ở nước ngoài.
Than từ các mỏ than ở nước ngoài sẽ được các tàu viễn dương (trọng tải cỡ 80.000÷100.000 tấn) chở thẳng đến NMNĐ hoặc đến các trung tâm trung chuyển than, sau đó dùng tàu nội địa (trọng tải cỡ 5.000 tấn) chuyển đến NMNĐ. Tại nhà máy, than có thể được chứa trong kho than hở, kho than có mái che, kho than kín hoặc silo than. Ở NMNĐ Shin Onoda (công nghệ siêu tới hạn SC, công suất 1000 MW với 2 tổ máy, mỗi tổ 500 MW, thông số hơi của lò p=25 Mpa, t=541/5680C), than được chứa trong kho than có mái che kiểu vòm. Còn ở nhà máy Misumi (công nghệ cực siêu tới hạn USC, công suất 1000 MW với 1 tổ máy, thông số hơi của lò p=25,4 Mpa, t=604/6020C) than được chứa trong silo kín.
Việc phối trộn than có thể thực hiện ngay tại kho than của nhà máy hoặc ở các trung tâm than. Có thể có nhiều phương pháp trộn than như trộn than trên băng tải, trộn than bằng phễu rót hay trộn than bằng máy gạt.